Phạm Bá Hải
Bài 1. THUẬT NGỮ “NGHĨA VỤ”
Luận văn tiến sĩ của VTV, ‘Nghĩa vụ con người trong luật pháp quốc tế và luật pháp Viêt Nam.’
VTV dùng thuật ngữ ‘nghiã vụ con người’ (Human duties) như một đối trọng với quyền con người (Human rights). Ông xác quyết rằng hai phạm trù đó của con người là hai mặt của một vấn đề. Trong mối tương quan này, ông cho rằng chỉ khi nào đặt nghiã vụ con người lên trên quyền con người thì xã hội mới có công lý và thịnh vượng (VTV, 2021, tr.263 – English)
Trong suốt quá trình lịch sử nhân loại, các nhà triết học như Aristotle, Cicero, các luật gia La Mã, Aquinas, Machievelli, hay John Milton đã nghiên cứu khái niệm nghĩa vụ (obligation) và vai trò của nó trong việc tìm kiếm một đời sống tốt hơn cho cá nhân và cộng đồng.
TK 16 và TK17, làn sóng cải cách đã đưa ra tư tưởng về ‘quyền con người’, gây chấn động xã hội. Những học giả tiên phong của khế ước xã hội, như Hobbes và Locke, hoài nghi về chủ trương vốn cho rằng con người phải tuân phủ luật lệ chung của xã hội. Theo hai vị học giả, lợi ích chung xã hội có thể bị thao túng trong tay của những công dân hay lãnh đạo có ý tư lợi. Phong trào tự do dân chủ đã cổ xuý cho quyền con người, đồng thời vẫn tiếp tục duy trì nghĩa vụ (obligation). Thực vậy, công dân vẫn phải có nghĩa vụ chính trị (political obligations) với nhau và với các cơ quan công quyền.
Trong ngành khoa học chính trị, diễn đàn thảo luận nghĩa vụ chính trị dường như không dứt với những nghi vấn nền tảng:
– Liệu có bất kỳ một ‘nghiã vụ chính trị’ nào không?
– Nghĩa vụ này phục vụ cho ai?
– Điều gì đã tạo ra cái nghĩa vụ thành ‘nghĩa vụ chính trị’ mà người ta phải tuân thủ?
– Nghĩa vụ này đã được hình thành ra sao?
Ngành học nhân quyền thì nghiên cứu các loại hình nghĩa vụ (obligations, duties), có từ đạo đức hay pháp lý, mà cá nhân, hội nhóm, sắc tộc, quốc gia lãnh lấy. Diễn đàn thảo luận quyền con người thường nêu những chủ đề về nghĩa vụ của nhà nước (state duties) (xem James Crawford, 2014), hay trách nhiệm của đại doanh nghiệp (company duties) (xem Blecher, 2014). Trong phạm vi nghĩa vụ nhà nhà nước, Bodig (2016, tr.75) phân loại nghĩa vụ (obligations) thành nghĩa vụ cốt lõi tối thiểu (minimal core obligations) và bộ ba nghĩa vụ – tôn trọng, bảo vệ, và thực thi. Đồng thời Bodig cũng cung cấp một loạt Bình Luận Chung (Basic Feedback) liên quan đến nghĩa vụ trong Công Ước quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá.
Sơ lược ngắn trên về các loại nghĩa vụ (obligation, obligation, accountability) cho thấy rằng mặc dù chúng có ngữ nghĩa tương tự, nhưng lại khác nhau khá tinh tế trong áp dụng thực tiễn. Theo Hodgson (2003, tr.1) nghĩa vụ (obligation) có thể hiểu như là ‘bất kỳ một hành động hoặc không hành động mà con người nhận lấy do cảm nhận bởi đạo đức hay ràng buộc từ pháp luật. Nghĩa vụ luôn gắn liền với cá nhân con người cụ thể. Thuật ngữ này thường thấy trong cụm từ: nghĩa vụ cá nhân, nghĩa vụ công dân, nghĩa vụ nhà nước, hay nghĩa vụ đại doanh nghiệp.
Khi tư tưởng khế ước xã hội (contractarianism) và chủ nghĩa thực lợi (utilitarianism) ra đời, thuật ngữ ‘quyền’ thay chỗ cho ‘nghĩa vụ’, và quyền con người cá thể (particular person rights) thay chỗ cho nghĩa vụ con người cá thể (particular person duties) (xem Devereux, 1995, tr.467).
Những triết gia vĩ đại, như Hugo Grotius (viết “Quyền của chiến tranh và hoà bình’ – the Proper of the Battle and Peace, 1625), Samuel Pufendorf (viết ‘Bàn về luật tự nhiên và quốc gia’ – On the Regulation of Nature and the Nations, 1672), John Locke (‘Hai Chuyên luận về chính phủ’ – Two Treatises of Authorities, 1689), và Immanuel Kant (‘Siêu hinh học đạo đức’ – the Metaphysics of the Morals, 1797) quả quyết rằng từ suy luận đạo lý, quyền tự nhiên là quyền mà ai ai cũng có; họ có vì bản chất họ là con người.
Khái luận về quyền con người tự nhiên xuất phát từ luật tự nhiên, có thể được diễn giải như sau: quyền con người tự nhiên là (1) quyền có từ căn nguồn đạo đức, cho nên (2) mọi người đều được thụ hưởng (3) bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào, (4) lý do đơn giản, vì họ là con người, (5) và những người có nghĩa vụ đáp ứng quyền đó là tất cả những người khả dĩ liên quan (xem Cruft, 2015, tr.2-4). Theo đó, từ ‘con người’ trong cum từ quyền con người nhấn mạnh đến tính ‘phổ quát’ (universalism).
Luận văn của VTV dùng cụm từ ‘human accountability’ gây cho người đọc cảm giác khó hiểu. Ông VTV đã cố gắng mô phỏng theo nội dung của ‘Tuyên ngôn Quốc tế Nghĩa vụ Con người’ (Common Declaration of Human Obligations), khởi thảo bởi InterAction Council – một tổ chức phi chính phủ, gồm những chính khách quốc tế. Cụm từ Nghiã vụ con người (Human Obligations) có thể dùng trong lúc thuyết trình, bản văn, … thí dụ như, dùng cho mục đích đánh tiếng về vụ việc toàn cầu nào đó, thì khác hoàn toàn với việc dùng nó trong nghiên cứu thuộc lãnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948) đã nhận dạng và chỉ ra 30 quyền con người mà mọi người đều có. Phán quyết toà án có thể dựa vào những quyền này để phân xử khi có liên quan. Trong khi đó, định nghĩa ‘nghĩa vụ là gì’ vấp phải sự bất đồng và tạo ra nguồn tranh cãi bất tận.
Có lẽ, nó sẽ là một công trình đồ sộ đầy thách thức nếu nổ lực tạo ra 30 nghĩa vụ, tương xứng và đối trọng với 30 quyền trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948). Một vấn đề khó khác nữa, lộ diện là, liệu chúng ta có vận dụng được trên toàn cầu, 30 nghĩa vụ chuẩn mực đã rút tỉa được đó, đưa vào trong lành vực pháp lý?
‘Con người’ trong quyền con người nêu bật tính phổ quát, nghĩa là mọi người đều tìm thấy sự bình đẳng về quyền ở mọi nơi. Trái lại, ba thuật ngữ về nghĩa vụ (obligation, obligation, responsiblity), như đã trình bày, mang trong nó mức độ khác nhau về nội dung, tiêu chuẩn, quy định, … khi áp dụng ở văn hoá khác nhau hay quốc gia khác nhau. Hành động theo nghĩa vụ phụ thuộc vào môi trường xã hội mà nó sinh ra.
Quyền con người mang tính phổ phát không biên giới; còn nghĩa vụ con người thì tương đối và theo bối cảnh xã hội.
Do vậy, những thử sức tổ hợp hai trường phái học thuật – phổ quát và tương đối, có thể sẽ dẫn đến tình trạng đa nghĩa, lẫn lộn, và tranh cãi trong nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn.
Phạm Bá Hải,
Thạc sĩ Quyền con người, ĐH London.