Roger HC Donlon, một lính Mũ nồi xanh của quân đội, người được nhận Huân chương Danh dự đầu tiên trong Chiến tranh Việt Nam vào năm 1964, vì đã chỉ huy việc bảo vệ một tiền đồn trong rừng trong một cuộc tấn công dữ dội vào ban đêm mặc dù bị thương do mảnh đạn từ súng cối và lựu đạn, đã qua đời vào ngày 1 tháng 1 0,25 ở Leavenworth, Kan., Nơi anh ấy sống. Ông ấy đã 89 tuổi.
Nguyên nhân là do bệnh Parkinson mà gia đình ông cho rằng là do phơi nhiễm chất độc màu da cam, loại hóa chất độc hại được máy bay Mỹ rải làm chất làm rụng lá ở Việt Nam.
Ông Donlon là một quân nhân chuyên nghiệp đã phục vụ trong quân đội 33 năm và thăng cấp đại tá. Trước đó, ông theo học tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Level, nhưng đã bỏ học sau hai năm và trở thành Mũ nồi xanh vào năm 1963 sau khi được huấn luyện tại Fort Bragg, NC, nay là Fort Liberty.
Trận chiến mà anh giành được Huân chương Danh dự đã phần nào truyền cảm hứng cho cảnh cao trào trong “The Inexperienced Berets”, một bộ phim năm 1968 với sự tham gia của John Wayne.
Ông Donlon là đại úy Lực Lượng Đặc Biệt 30 tuổi khi ông đến miền Nam Việt Nam để chỉ huy một tiền đồn ở Nam Đồng, phía bắc Đà Nẵng, cách biên giới Lào không xa. Khu vực miền núi ở Tây Nguyên là nơi sinh sống của dân làng người Thượng, những người mà các cố vấn quân đội – và trước họ là các sĩ quan CIA – đã cố gắng xây dựng thành một bức tường thành chống lại Việt Cộng, lực lượng nổi dậy Cộng sản liên kết với miền Bắc Việt Nam.
Được bao quanh bởi hàng rào thép gai, Trại Nam Đông được bảo vệ bởi hàng chục Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ và khoảng 300 người Việt Nam. Vào rạng sáng ngày 6 tháng 7 năm 1964, một lực lượng từ 800 đến 900 Việt Cộng và quân chính quy Bắc Việt đã mở một cuộc tấn công bất ngờ, tìm cách tràn vào trại.
Nhiều năm sau, ông Donlon cho biết trong số các chiến sĩ Mũ nồi xanh đang huấn luyện có nhiều người có cảm tình với Việt Cộng. Khi vụ nổ súng bắt đầu, ông nói với Huân chương Danh dự của Quốc hội, những kẻ tấn công đã đưa ra thông báo qua hệ thống truyền thanh công cộng bằng tiếng Anh và tiếng Việt, nói với những người đồng tình: “Bỏ vũ khí xuống. Chúng tôi chỉ muốn người Mỹ.” Ông ước tính chỉ có 75 chiến binh đáng tin cậy để bảo vệ trại.
Chạy qua “một cơn mưa vũ khí nhỏ và lựu đạn nổ”, theo trích dẫn của Huân chương Danh dự, Đại úy Donlon đã “tiêu diệt” các chiến binh địch đang cố gắng chọc thủng cổng chính.
Trong suốt 5 giờ chiến đấu, anh ta liên tục hành động: nằm xuống bắn yểm trợ khi binh lính của anh ta rút lui, bò bằng súng cối 60 mm đến địa điểm mới và kéo một người lính bị thương ra khỏi hố súng. Trong một số trường hợp riêng biệt, anh bị thương ở bụng, vai trái, chân và mặt.
Đại úy Donlon liên lạc qua điện đài để yêu cầu tiếp viện, nhưng khi trực thăng từ Căn cứ Không quân Đà Nẵng đến, họ không thể hạ cánh vì giao tranh dữ dội và phải quay trở lại căn cứ.
“Không chút do dự,” lời trích dẫn của Đại úy Donlon viết, “anh ta rời khỏi vị trí được che chắn này và di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác xung quanh chu vi bị bao vây trong khi ném lựu đạn vào kẻ thù và truyền cảm hứng cho người của mình nỗ lực siêu phàm.”
Vào lúc bình minh, khi kẻ thù rút lui, hai lính Mũ nồi xanh, một lính Australia và 55 lính phòng thủ miền Nam Việt Nam đã thiệt mạng, trong khi Việt Cộng mất 64 người, theo một lịch sử quân sự chính thức.
Thuyền trưởng Donlon được Tổng thống Lyndon B. Johnson trao tặng Huân chương Danh dự tại Nhà Trắng vào ngày 5/12/1964.
Năm đó, với 23.000 lính Mỹ ở Việt Nam, chính quyền vẫn đang tuyên truyền về vai trò của Mỹ trong cuộc chiến. Tuyên bố của Nhà Trắng cho biết: “Đây là Huân chương Danh dự đầu tiên được trao cho một cá nhân xuất sắc khi phục vụ trong một lực lượng thân thiện tham gia vào một cuộc xung đột vũ trang mà Hoa Kỳ không phải là một bên tham chiến”.
Sự nghiệp quân sự của ông Donlon bắt đầu khi ông gia nhập Lực lượng Không quân năm 1953. Ông được nhận vào West Level năm 1955 nhưng bỏ học sau hai năm, nhận công việc ở IBM. Sau 10 tháng, ông quyết định rằng công việc ở công ty không dành cho mình, và vào năm 1958, ông gia nhập Quân đội, tốt nghiệp Trường Ứng viên Sĩ quan với hàm thiếu úy tại Fort Benning, Ga., nay là Fort Moore.
Sau Việt Nam, ông lấy bằng Cử nhân Nghiên cứu Tổng quát của Đại học Nebraska ở Omaha và bằng Thạc sĩ Khoa học về chính phủ của Đại học Campbell, theo Stars and Stripes. Ông trở thành giảng viên tại Trường Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu tại Fort Leavenworth ở Leavenworth, Kan., nơi ông tiếp tục sống cùng gia đình sau khi nghỉ hưu năm 1988.
Ông viết hai cuốn sách “Tiền đồn tự do” (1965) về trận chiến Nam Đông và “Ngoài Nam Đông” (1998), một cuốn tự truyện kể về việc trở về Nam Đông sau chiến tranh một thời gian dài để thúc đẩy hòa giải.
Khi nghỉ hưu, ông gây quỹ học bổng cho sinh viên người Mỹ gốc Việt và người Việt, đồng thời xây dựng thư viện và trung tâm học tập cho trẻ em ở làng Nam Đông. Ông dẫn đầu một phái đoàn đến Việt Nam vào năm 1993 cho nhóm phi lợi nhuận Folks to Folks Worldwide, nơi ông phục vụ trong hội đồng quản trị.
Roger Hugh Charles Donlon sinh ngày 30 tháng 1 năm 1934 tại Saugerties, NY. Ông là con thứ tám trong số 10 người con của Paul A. Donlon, người điều hành một công ty khai thác gỗ và Marion (Howard) Donlon. Cha anh qua đời khi anh 13 tuổi. Khi ông Donlon trở lại Saugerties vào năm 2016 sau khi tòa thị chính của nó được đặt tên để vinh danh ông, một người bạn học cũ của ông đã nói với một tờ báo địa phương rằng ông “luôn muốn trở thành một người lính”.
Jack Bartells, người bạn cùng lớp, cho biết: “Anh ấy xuất thân từ một gia đình quân nhân, và anh ấy cùng bốn anh em đã phục vụ trong quân đội”.
Năm 1968, ông kết hôn với Norma Shinno Irving, người chồng đầu tiên đã thiệt mạng ở Việt Nam sau khi ngồi cạnh bà trên một chuyến bay. Cô sống sót sau anh ta, cũng như hai anh trai của anh ta, Paul A. Donlon Jr. và Jack Donlon; một cô con gái, Linda Danniger; và ba con trai, Damian, Jason và Derek; sáu đứa cháu; và một chắt.
Trong chuyến trở về Nam Đông năm 1995, ông Donlon đã đến thăm những ngôi mộ mọc um tùm của những người lính miền Nam Việt Nam dưới quyền chỉ huy của ông đã hy sinh trong trận chiến. Bên cạnh ông là Nguyễn Cẩn Thư, một cựu quan chức chính trị Việt Cộng, người đã giúp lập kế hoạch tấn công. Sau này ông Donlon kể lại rằng chính ông Thu đã nói với ông rằng 100 trong số 300 người Việt mà ông huấn luyện trong trại là những kẻ xâm nhập Việt Cộng.
Cùng nhau, hai người đàn ông dọn bụi cây và sửa lại một số tấm bia không được đánh dấu. Họ được các cựu chiến binh Việt Cộng giúp đỡ trong trận chiến.
Ông Donlon nói với The Kansas Metropolis Star vào năm 1999: “Tôi ở đó, quỳ xuống cắt cỏ trên mộ những người lính của mình, và xung quanh tôi là những kẻ thù cũ đang giúp tôi làm điều đó”. .”