Vào ngày 31 tháng 3 năm 1968, Lyndon Johnson đã có bài phát biểu được truyền hình toàn quốc từ Phòng Bầu dục để tuyên bố rằng ông sẽ không tiếp tục tìm kiếm và không chấp nhận đề cử của đảng mình cho chức tổng thống Hoa Kỳ.
Sau màn trình diễn thảm hại của mình tại cuộc tranh luận tuần trước, Tổng thống Biden đang chịu áp lực ngày càng lớn để làm điều tương tự. Thật hấp dẫn khi nghĩ về sự so sánh này như một thảm kịch chính trị thuần túy: hai người đàn ông kiêu hãnh sắp kết thúc sự nghiệp thường được ca ngợi của họ, buộc phải đối mặt với thực tế rằng họ là những ứng cử viên bị tổn thương sâu sắc đang tiến tới những thất bại nhục nhã mà họ chỉ có thể tránh được bằng cách từ bỏ nhiệm kỳ thứ hai mà họ chắc chắn rằng họ xứng đáng.
Tuy nhiên, chỉ nhìn nhận thời điểm này theo những thuật ngữ đó thì sẽ bỏ lỡ tầm quan trọng của những gì Johnson đã làm vào năm 1968. Đúng vậy, ứng cử của ông đã bị tổn hại nghiêm trọng. Quyết định rút khỏi chiến dịch của ông đã vướng vào đủ thứ vấn đề chính trị, tâm lý và cảm xúc. Điều bị lãng quên về quyết định của Johnson là số lượng các yếu tố khác mà tổng thống đã cân nhắc.
Hơn bất cứ điều gì khác, ông hy vọng rằng bằng cách kết thúc chiến dịch của mình, ông có thể xoa dịu mối đe dọa hiện hữu đối với quốc gia. Chi tiết có thể khác nhau, nhưng đó cũng là tình hình mà ông Biden đang phải đối mặt.
Cuộc khủng hoảng của Johnson bắt đầu vào ngày 30 tháng 1 năm 1968, khi quân đội Bắc Việt phá vỡ lệnh ngừng bắn năm mới hàng năm của Chiến tranh Việt Nam bằng một cuộc tấn công bất ngờ vào hầu hết mọi địa điểm chiến lược ở Nam Việt Nam. Các nhà phân tích sau này cho rằng cuộc phản công của Hoa Kỳ đã biến cuộc tấn công Tết thành một cuộc tháo chạy. Nhưng điều đó không rõ ràng vào thời điểm đó. Phải mất 12 ngày để quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đẩy quân Bắc Việt ra khỏi quận Chợ Lớn của Sài Gòn và hơn một tháng để họ giành lại thành phố ven biển Huế, với tỷ lệ thương vong cao hơn so với những gì người Mỹ phải chịu ở bất kỳ thời điểm nào trước đó trong cuộc chiến.
Sau đó, cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn. Vào ngày 27 tháng 2 năm 1968, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân chính thức yêu cầu Johnson tăng quân triển khai ở Việt Nam lên 700.000 quân, tăng 40 phần trăm so với nửa triệu quân đã có ở đó. Trong gần hai tuần, các cố vấn của Johnson đã tranh luận homosexual gắt về khả năng leo thang. Vào ngày thứ 13 — ngày 10 tháng 3 — tin tức về yêu cầu bị rò rỉ và dẫn đến một cơn bão chỉ trích từ phe phản chiến của Đảng Dân chủ. Hai ngày sau, ứng cử viên tổng thống duy nhất của phe này, Thượng nghị sĩ Eugene McCarthy của Minnesota, đã giành được 42 phần trăm số phiếu trong cuộc bầu cử sơ bộ ở New Hampshire, đáng ngạc nhiên là chỉ kém Johnson tám điểm.
Sáng hôm sau, Robert Kennedy nói với các phóng viên rằng ông cũng có thể tham gia cuộc đua. Và chiều hôm đó, nền kinh tế toàn cầu bắt đầu sụp đổ.
Trong 24 năm, Hoa Kỳ đã neo giữ phần lớn hoạt động thương mại của thế giới bằng cách neo các loại tiền tệ nước ngoài vào đồng đô la và sau đó đảm bảo với các nhà đầu tư rằng họ có thể đổi mỗi đô la họ nắm giữ lấy vàng theo tỷ giá hối đoái cố định. Chi phí leo thang của Chiến tranh Việt Nam đã làm lung lay niềm tin của các nhà đầu tư vào lời hứa đó. Sự hỗn loạn của tháng 3 đã phá vỡ nó. Vì vậy, họ đã giải phóng một đợt chạy đua vàng.
Vào ngày 13 tháng 3 năm 1968, họ đã rút 200 triệu đô la từ dự trữ vàng của chính phủ. Ngày hôm sau, họ đã tăng gấp đôi số tiền đó, và ngày hôm sau nữa, khoản lỗ đã tăng lên tới một tỷ đô la, một con số khổng lồ đến mức các nhà kinh tế cảnh báo rằng Washington sẽ sớm phải phá giá đồng đô la, một động thái có khả năng gây ra suy thoái toàn cầu.
Chính quyền hiểu rằng sự hoảng loạn có thể sẽ lại xảy ra trừ khi có những thay đổi cơ bản. “Chúng ta đang ở thời điểm quan trọng nhất trong lịch sử hậu chiến”, cố vấn an ninh quốc gia của Johnson đã viết cho ông vào ngày 19 tháng 3. Johnson không còn có thể cân nhắc tính toán chính trị với cuộc khủng hoảng hiện sinh này nữa. Mười hai ngày sau, ông đã rút lui khỏi cuộc đua.
Tuyên bố của ông gây sốc đến mức nó làm lu mờ các phần của bài phát biểu trước đó. Ông nói rằng ông chỉ trao cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân một phần nhỏ quân số mà họ muốn, và sau đó sẽ không còn nữa. Ông nói với các nhà đầu tư rằng ông sẽ ổn định ngân sách mà Việt Nam đã tàn phá bằng cách tăng thuế và cắt giảm chi tiêu trong nước, mặc dù điều sau là một sự nhượng bộ nặng nề. Và ông nói với Bắc Việt rằng ông sẽ tham gia các cuộc đàm phán hòa bình bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào họ muốn, “để thảo luận về các biện pháp chấm dứt cuộc chiến xấu xí này”.
Chỉ khi đó Johnson mới nói rằng ông không chạy đua, một sự sắp xếp có nghĩa là để đảm bảo với những người nghe mà ông cần tiếp cận — các vị tướng, các nhà đầu tư, người Bắc Việt — rằng những hành động ông đang thực hiện không phải là chính trị. Chúng là nền tảng, lời hứa của chúng được đảm bảo bằng sự sẵn lòng hy sinh chức tổng thống của ông vì lợi ích của quốc gia.
Bây giờ ông Biden đang phải đối mặt với một mối đe dọa có thể gây ra mối nguy hiểm thậm chí còn lớn hơn cho quốc gia. Điều này đã được thể hiện rõ ràng trong cuộc tranh luận hôm thứ Năm, không phải trong những khoảnh khắc hiếm hoi khi Donald Trump đề cập đến các chính sách cụ thể mà ông sẽ theo đuổi trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, mặc dù nhiều đề xuất của ông rất đáng lo ngại, nhưng đáng báo động nhất là trong việc ông Trump liên tục từ chối nói rằng ông sẽ chấp nhận kết quả bầu cử, lời đe dọa rõ ràng của ông là sẽ truy tố ông Biden về những cáo buộc mà ông không thèm nêu rõ và sự hạ thấp hoàn toàn của ông đối với tiến trình chính trị thông qua việc triển khai liên tục chủ nghĩa bài ngoại và thù hận chủng tộc, sự gieo rắc nỗi sợ hãi và hàng loạt lời nói dối của ông.
Ông Biden đã đúng khi nói, như ông đã nói trong suốt chiến dịch, rằng nền dân chủ năm nay đang bị đe dọa. Câu hỏi quan trọng là liệu việc ông có tên trong lá phiếu có phải là cách tốt nhất để bảo vệ nền dân chủ hay không.
Ông ấy có vẻ nghĩ như vậy. Điều đó dễ hiểu. Việc ông ấy rút lui khỏi cuộc đua sẽ tạo ra những thách thức to lớn cho một hệ thống chính trị không còn được thiết lập về mặt cấu trúc hoặc thực tế để có ứng cử viên tổng thống của một đảng được chọn trong một đại hội mở. Trên thực tế, kinh nghiệm của đảng Dân chủ vào năm 1968 không đáng tin cậy. Trong khi việc Johnson rút lui đã làm dịu thị trường và dẫn đến các cuộc đàm phán hòa bình, thì nó lại làm tăng thêm sự hỗn loạn vốn đã diễn ra trong quá trình đề cử và sẽ tiêu diệt nó khi đảng loạng choạng bước vào đại hội.
Nhưng không có lý do gì để nghĩ rằng điều tương tự sẽ xảy ra vào năm 2024. Đảng Dân chủ chắc chắn đã có những bất đồng trong ba chu kỳ bầu cử gần đây nhất. Tuy nhiên, đảng này hiện đã thống nhất hơn nhiều so với năm 1968 và mỗi lần như vậy, họ đều tạo ra được một mặt trận gắn kết chống lại mối đe dọa mà ông Trump gây ra — đáng chú ý nhất là vào năm 2020, khi họ khép lại chiến dịch tranh cử của ông Biden, mặc dù ông đã vấp ngã trong mùa bầu cử sơ bộ.
Cuối cùng, rào cản lớn nhất đối với việc rút lui của ông Biden có thể là vấn đề cá nhân hơn là chính trị. Ông từ lâu đã định nghĩa bản thân mình bằng khả năng vượt qua những đòn giáng tưởng chừng như không thể chịu đựng được. Ông đã làm điều đó một lần nữa khi kết thúc bài phát biểu vào chiều thứ Sáu tại Bắc Carolina bằng cách đọc lại một câu nói mà ông đã sử dụng trong suốt sự nghiệp của mình: “Tôi biết những gì hàng triệu người Mỹ biết”, ông nói. “Khi bạn bị đánh gục, bạn sẽ đứng dậy!” Việc rút lui khỏi cuộc đua ngay bây giờ sẽ là thừa nhận rằng, trong tuổi già của mình, ông đã gặp phải một thách thức mà ông không thể vượt qua.
Điều mà ông Biden không nên làm là coi sự nhượng bộ đó là dấu hiệu của sự yếu đuối hay thất bại mà là cơ hội để làm như Johnson đã làm trong một thời điểm cực kỳ nguy hiểm khác: đứng trước người dân Mỹ để tuyên bố rằng ông sẽ không chấp nhận đề cử của đảng mình và với hành động đau đớn và vô cùng dũng cảm đó, hãy đứng lên bảo vệ đất nước mà ông đã thề sẽ bảo vệ và gìn giữ.
Kevin Boyle, giáo sư lịch sử tại Đại học Northwestern, là tác giả gần đây nhất của cuốn “The Shattering: America within the Sixties”.